The US FDA’s proposed rule on laboratory-developed tests: Impacts on clinical laboratory testing
Nội dung
Morgan Wallen | |
---|---|
Sinh | Morgan Cole Wallen[1] 13 tháng 5, 1993 Sneedville, Tennessee, Mỹ |
Nghề nghiệp |
|
Năm hoạt động | 2014–nay |
Con cái | 1 |
Website | morganwallen |
Sự nghiệp âm nhạc | |
Thể loại | |
Hãng đĩa |
Morgan Cole Wallen (sinh ngày 13 tháng 5 năm 1993) là nam ca sĩ nhạc đồng quê người Mỹ. Anh từng tham dự chương trình tìm kiếm tài năng âm nhạc The Voice mùa thứ sáu ở đội của Usher và sau đó là Adam Levine. Sau khi bị loại trong vòng đối đầu của cuộc thi, anh ký hợp đồng với hãng đĩa Panacea Records và phát hành EP đầu tay mang tên Stand Alone năm 2015.
Năm 2016, Wallen chuyển sang hợp tác với hãng Big Loud và cho ra mắt album đầu tiên If I Know Me năm 2018[4] với các đĩa đơn là "Up Down" (với Florida Georgia Line), "Whiskey Glasses" và "Chasin' You". Album đạt hạng nhất trên bảng xếp hạng nhạc đồng quê Billboard Top Country Albums.[5] Album thứ hai, Dangerous: The Double Album, ra mắt tháng 1 năm 2021 với các ca khúc "More Than My Hometown", "7 Summers" và "Wasted on You". Tới tháng 2 cùng năm, đây là album đồng quê duy nhất nắm giữ ngôi đầu trong bảy tuần đầu tiên phát hành, trong suốt 64 năm của bảng xếp hạng Billboard 200.[6] Album tiếp tục có thêm ba tuần hạng nhất nữa, trở thành album đầu tiên có 10 tuần đầu tiên ở đạt hạng nhất kể từ Whitney của Whitney Houston năm 1987.[7][8]
Album phòng thu thứ ba, One Thing at a Time (2023), cũng đạt hạng nhất Billboard 200 trong 19 tuần không liên tiếp. Tất cả 36 bài hát trong album đều lọt Billboard Hot 100, giúp anh đạt kỷ lục nghệ sĩ có nhiều bài hát nhất lọt bảng xếp hạng trong cùng một thời điểm.[9] Đĩa đơn "Last Night" ra mắt năm 2023 và đứng đầu Hot 100, trở thành đĩa đơn hạng nhất đầu tiên của anh. Với 16 tuần quán quân, đây là bài hát trụ hạng lâu thứ hai, đồng thời là bài đơn ca trụ hạng lâu nhất bảng xếp hạng này.[10] Trong danh sách xếp hạng cuối năm, "Last Night" cũng nắm giữ vị trí đầu tiên.
Nam ca sĩ cũng giành được một giải thưởng Hàn lâm nhạc đồng quê và 14 giải thưởng Âm nhạc Billboard.[11]
Tiểu sử
Morgan Cole Wallen sinh ngày 13 tháng 5 năm 1993 tại Sneedville, Tennessee.[12] Cha anh, Tommy, từng làm linh mục nhà thờ, còn mẹ Lesli là giáo viên.[13] Khi còn nhỏ, gia đình anh chuyển tới quận Knox cùng bang. Anh tốt nghiệp trường Trung học Gibbs,[14] tại đây anh từng chơi bóng chày nhưng sau đó vì chấn thương nên không tiếp tục theo đuổi môn thể thao này.[15]
Từ nhỏ Wallen đã học chơi piano, violin và cha anh thường cho nghe nhạc classic rock. Anh lớn lên với những ca sĩ yêu thích như Breaking Benjamin, Nickelback và Lil Wayne.[16]
Học xong Trung học, thất vọng vì chấn thương không thể chơi bóng, anh đi làm nhân viên cảnh quan môi trường.[13] Sau đó, anh chuyển hướng sang âm nhạc và tập đàn guitar.[16] Anh bắt đầu đam mê thể loại đồng quê sau khi nghe nhạc của các nghệ sĩ như Keith Whitley và Eric Church.[16]
Đời tư
Năm 2016, Wallen hẹn hò với influencer KT Smith và đính hôn sau đó một vài tháng.[17][18] Năm 2019, cặp đôi chia tay với lý do được cho là Wallen ngoại tình. Năm 2020, Smith sinh con trai chung với nam ca sĩ, đặt tên là Indigo,[19][20][18] cô hiện đã kết hôn với chồng mới.[18] Wallen cũng từng hẹn hò với influencer Paige Lorenze[21] và nữ ca sĩ đồng quê Megan Moroney, người được cho là đã viết ca khúc "Tennessee Orange" về cuộc chia tay với anh.[22][23][24]
Ngày 1 tháng 6 năm 2024, Wallen khai trương quán bar sáu tầng, kiêm nhà hàng, phòng nhạc "Morgan Wallen's This Bar & Tennessee Kitchen" ở thành phố Nashville.[25]
Danh sách nhạc
- If I Know Me (2018)
- Dangerous: The Double Album (2021)
- One Thing at a Time (2023)
Lưu diễn
Hát chính
- The Dangerous Tour (2022)
- One Night at a Time World Tour (2023-2024) (với Bailey Zimmerman, Ernest, Hardy và Parker McCollum)
Mở màn
- What Makes You Country Tour (2018) (với Luke Bryan)
- Can't Say I Ain't Country Tour (2019) (với Florida Georgia Line)
- Beer Never Broke My Heart Tour (2019) (với Luke Combs)
Tham khảo
- ^ “Search results for Wallen, Morgan Cole”. BMI. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2024.
- ^ a b Harvilla, Rob (8 tháng 1 năm 2021). “Morgan Wallen Is the Country Bro You Can't Help but Root For”. TheRinger.com. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2022.
- ^ “Morgan Wallen”. AllMusic.com. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2020.
- ^ “Big Loud Records Adds Morgan Wallen to Roster” (bằng tiếng Anh). Big Loud Records. 15 tháng 8 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2021.
- ^ KFDI Staff (13 tháng 8 năm 2020). “Morgan Wallen's 'If I Know Me' Reaches No. 1 on Billboard Top Country Albums Chart”. KFDI.com (bằng tiếng Anh). Country 101.3 KFDI. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2021.
- ^ Caulfield, Keith (28 tháng 2 năm 2021). “Morgan Wallen's 'Dangerous' Becomes Only Country Album to Spend First Seven Weeks at No. 1 on Billboard 200”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2021.
- ^ Sisario, Ben (22 tháng 3 năm 2021). “Morgan Wallen Tops Chart for a 10th Week”. The New York Times (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2021.
- ^ “Morgan Wallen on Country Digital Song Sales”. Billboard. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2021.
- ^ Trust, Greg (13 tháng 3 năm 2023). “Morgan Wallen Charts Single-Week Record 36 Songs on Hot 100 – Every Track From 'One Thing at a Time'”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2023.
- ^ Trust, Gary (14 tháng 8 năm 2023). “Morgan Wallen's 'Last Night' Claims 16th Week Atop Hot 100”. Billboard. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2023.
- ^ BBMAs (13 tháng 11 năm 2023). “Country Music Superstar Morgan Wallen to Perform”. Billboard Music Awards (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2024.
- ^ Randell, Louise (4 tháng 2 năm 2021). “Everything we know about Morgan Wallen's parents”. StylesRant.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2021.
- ^ a b Sanneh, Kelefa (17 tháng 12 năm 2020). “How Morgan Wallen Became the Most Wanted Man in Country”. The New Yorker. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2022.
- ^ Deming, Mark. “Morgan Wallen Biography, Songs, & Albums”. AllMusic. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2022.
- ^ Casey, Jim (13 tháng 3 năm 2017). “Who's New: Morgan Wallen”. The Country Daily. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2021.
- ^ a b c “Is Morgan Wallen Country's Next Global Star?”. Billboard. 14 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2021.
- ^ Santaflorentina, Hayley (10 tháng 4 năm 2024). “Morgan Wallen's ex KT Smith speaks out amid reports her elopement was behind bar incident”. NBC 5 Dallas-Fort Worth (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2024.
- ^ a b c Aizin, Rebecca (10 tháng 4 năm 2024). “Who Is Morgan Wallen's Ex-Girlfriend? All About KT Smith”. People (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2024.
- ^ “Morgan Wallen Celebrates Son Indigo Wilder's 1st Birthday with Ex KT Smith After Controversy”. People. 12 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2022.
- ^ “Who Is Morgan Wallen's Ex-Girlfriend? All About KT Smith”. People.com.
- ^ “Morgan Wallen's Famous Ex-Girlfriend Reveals the Interesting Reason They Broke up”. 3 tháng 10 năm 2022.
- ^ “Megan Moroney Finally Addresses Morgan Wallen Romance Rumors: 'We Were Not Just Friends'”. Billboard.
- ^ “Singer Megan Moroney Finally Addresses Morgan Wallen Dating Rumors”. 31 tháng 7 năm 2024.
- ^ “Megan Moroney Breaks Silence on Morgan Wallen Romance, Says They Were Never 'Exclusively Dating'”. People.com.
- ^ “Morgan Wallen's Nashville Bar Opening June 1”. Billboard.
Liên kết ngoài
- Tư liệu liên quan tới Morgan Wallen tại Wikimedia Commons
- Morgan Wallen trên AllMusic