Knowledge Base Wiki

Search for LIMS content across all our Wiki Knowledge Bases.

Type a search term to find related articles by LIMS subject matter experts gathered from the most trusted and dynamic collaboration tools in the laboratory informatics industry.

Rob Rensenbrink
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Pieter Robert Rensenbrink
Ngày mất 24 tháng 1, 2020(2020-01-24) (72 tuổi)
Chiều cao 1,78 m (5 ft 10 in)[1]
Vị trí Tiền vệ[1]
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
DWS Amsterdam
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
1965–1969 Door Wilskracht Sterk 120 (34)
1969–1971 Club Brugge 55 (24)
1971–1980 R.S.C. Anderlecht 262 (143)
1980 Portland Timbers 18 (6)
1981–1982 Toulouse F.C. 12 (1)
Tổng cộng 467 (208)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
1968–1979 Hà Lan 46 (14[2])
Thành tích huy chương
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia

Pieter Robert "Rob" Rensenbrink (3 tháng 7 năm 1947 – 24 tháng 1 năm 2020) là cựu cầu thủ đội tuyển bóng đá người Hà Lan và là thành viên của đội tuyển bóng đá Hà Lan đoạt ngôi á quân World Cup 19741978.

Sự nghiệp câu lạc bộ

Sinh ra tại Amsterdam, Rensenbrink khởi đầu sự nghiệp tại DWS, một cầu lạc bộ nghiệp dư tại Amsterdam trước khi chuyển tới Bỉ chơi cho F.C. Brugge năm 1969. Từ năm 1971-1980 ông chơi cho Anderlecht, nơi ông đã đạt được những thành công lớn trong sự nghiệp. Ông có được Cúp C2 châu Âu năm 1976, 1978 và ngôi á quân năm 1977 với Anderlecht. Sau khi kết thúc thời gian chơi ở Anderlecht, Rensenbrink đến Portland TimbersMỹ và kết thúc sự nghiệp tại đó.

Sự nghiệp quốc tế

Rensenbrink lần đầu xuất hiện ở đội tuyển quốc gia Hà Lan trong trận gặp Scotland năm 1968. Ông chơi ở vị trí tiền đạo, vị trí mà có sự canh tranh rất lớn khi mà thời đó Hà Lan có các ngôi sao như Johan CruijffPiet Keizer. Tuy nhiên Rinus Michels vẫn triệu tập ông thi đấu ở vòng chung kết World Cup 1974 tổ chức tại Tây Đức. Đội hình Hà Lan năm đó hầu hết là các cầu thủ ở Ajax AmsterdamFeyenoord Rotterdam, chỉ có Rensenbrink là đang chơi bóng ở nước ngoài. Giải năm đó ông chủ yếu ngồi ở băng dự bị. Ông ra sân một hiệp trong trận bán kết gặp Brasil. Trong trận chung kết Rinus Michels đã cho Rensenbrink ra sân ngay từ đầu. Tuy nhiên hết hiệp một ông bị thay bởi René van de Kerkhof. Trận đó Hà Lan đã vươn lên dẫn trước bằng bàn thắng của Johan Neeskens trên chấm 11m. Nhưng 2 bàn thắng của Paul BreitnerGerd Müller đã đem lại chiến thắng 2–1 cho Đức.

Ông cũng tham gia thi đấu trong đội tuyển Hà Lan ở Euro 1976, và lần này đội nhà lại thất bại trước Tiệp Khắc trong trận bán kết.

World Cup 1978 tổ chức ở Argentina. Hà Lan tham gia giải lần này mà không có Johan Cruijff (từ chối tham gia đội tuyển vì lý do bị khủng bố, điều này Cruijff mới tiết lộ trên báo chí gần đây) dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Ernst Happel. Do không có Johan Cruijff nên Rensenbrink đã thể hiện được hết tài năng của mình, với sự hậu thuẫn của Johnny RepRené van de Kerkhof. Ông đã lập hat-trick trong trận gặp Iran, còn trong trận gặp Scotland ông đã ghi bàn thắng thứ 1000 ở các kỳ World Cup. Hà Lan thi đấu thành công và lọt vào được trận chung kết. Trong trận chung kết gặp đội chủ nhà, họ bị dẫn trước sau bàn thắng của tiền đạo Mario Kempes, nhưng chỉ 9 phút sau Dick Nanninga đã san hòa tỉ số. Rensenbrink có cơ hội ghi bàn sau khi nhận được bóng từ đường chuyền dài của đội trưởng Ruud Krol tuy nhiên ông sút không thành công và chung cuộc Hà Lan thua với tỉ số 3–1.

Ông tham gia Euro 80 khi đã 32 tuổi, tuy nhiên Hà Lan thi đấu không thành công và bị loại từ vòng bảng. Sau giải ông giải nghệ sự nghiệp quốc tế. Tổng cộng Rensenbrink thi đấu cho đội tuyển quốc gia 49 trận và ghi được 14 bàn.

Danh hiệu

Tham khảo

  1. ^ a b c d “Rensenbrink career stats”. Football Database.eu. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2012.
  2. ^ "Rob Rensenbrink – International Appearances". RSSSF. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2012.
Tiền nhiệm:
Johan Boskamp
Chiếc giày vàng Bỉ
1976
Kế nhiệm:
Julien Cools